Trang

Thứ Bảy, 7 tháng 1, 2012

Niềm vui đời mục vụ


Năm cuối ở chủng viện, trước khi chịu chức phó tế, chúng tôi được học dâng lễ và cách cử hành các bí tích.  Cha giáo sư môn Phụng vụ trong khi dạy về các nghi thức cử hành thánh lễ có kể cho chúng tôi nghe câu chuyện vui về một vị Giám mục về hưu.  Đức cha già này rất khó tính và luôn theo sát chỉ dẫn của phụng vụ chữ đỏ.  Một lần kia, khi tham dự Thánh lễ đồng tế, đến phần hiệp lễ, vị linh mục chủ tế tiến lại gần bên ngài với Mình và Máu Thánh Chúa trên tay, cung kính đưa cho ngài với lời tuyên bố: “Mình Máu Thánh Chúa Kitô”.  Trái với sự mong đợi bình thường, vị giám mục về hưu khó tính thưa lại rằng: “biết rồi, tôi cũng làm được Mình và Máu Thánh Chúa mà!” (“Yes, I know, I also can make it !”).  Cha giáo sư môn Phụng vụ có ý dạy chúng tôi là khi trao Mình Thánh, Máu Thánh Chúa cho Giám mục hiện diện trong Thánh lễ thì không cần phải xướng “Mình Thánh Chúa Kitô” hay “Máu Thánh Chúa Kitô” nữa, chỉ cần cung kính đưa Mình Máu Thánh Chúa cho ngài, vì thánh chức Giám mục của ngài tự đã đủ.
Là linh mục, ngày ngày tôi dâng lễ, bánh và rượu trước khi truyền phép thì vẫn là bánh và rượu, nhưng khi tôi dâng lễ, bàn tay tôi cầm lấy bánh và đôi tay tôi nâng chén rượu đọc lời truyền phép, sau những lời tôi tuyên đọc, bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa khiến mọi người phải cung kính bái thờ.  Đặc ân và vinh dự ấy đâu phải dễ ai cũng có? Niềm tin và giáo lý của Giáo hội dạy tôi và mọi người đều tin như vậy. 
Một lần xức dầu thánh hiến trên đôi bàn tay đủ giá trị và hiệu lực muôn đời, dù đôi bàn tay ấy không tinh tuyền vì tội lỗi; dù đôi bàn tay ấy là đôi bàn tay của nhân loại chứ không phải là bàn tay quyền năng của Thiên Chúa.  Thế mới hay việc Thiên Chúa thực hiện và chuyển ban những ân sủng của Người cho con người qua bàn tay nhân loại hay và ý nghĩa như thế nào.
Cũng vậy, tôi ngồi tòa giải tội.  Đến với tôi là những hối nhân thuộc đủ mọi hạng người trong xã hội.  Là linh mục, là nữ tu, là giáo sư bác sĩ, là bà nội trợ, là viên chức chính phủ, thị trưởng của thành phố, là những em học sinh… tất cả đều mong muốn tìm những khoảnh khắc được tâm sự, được thưa chuyện với Chúa về những lỗi lầm vì yếu đuối của mình.  Họ thật sự muốn tìm sự an ủi, vỗ về của Thiên Chúa qua tôi, một linh mục của Ngài.  Họ tìm đến với bí tích Giải tội, họ đến với tâm trạng mất bình an, họ bước vào tòa giải tội với tâm trạng dằn vặt, đau đớn vì tội lỗi.  Nhưng kỳ lạ thay, khi bước ra khỏi tòa giải tội, họ cảm nhận và tìm thấy sự bình an đích thực, một sự bình an từ trong sâu thẳm của lòng họ.  Nghĩ lại, tôi cũng là một tội nhân, cũng chẳng hơn gì những hối nhân kia, tôi là một con người bất toàn, tôi đâu có làm được điều gì to tát cho họ.  Tôi chỉ lắng nghe, kiên nhẫn lắng nghe, rồi khuyên bảo ít lời và đọc công thức tha tội, rồi giơ tay ban ơn xá giải, rồi lời chào tạm biệt với lời chúc ra đi bình an và đừng phạm tội nữa.  Vậy mà nhiêu đó cũng đủ khơi lên được trong họ một niềm tin yêu hy vọng và sự bình an sâu thẳm trong lòng.  Ơn Chúa quả thật đã qua tay tôi, qua con người tôi mà đến với họ.  Thật tuyệt vời, thật siêu nhiên và mầu nhiệm biết bao.
Đi thăm bệnh nhân ở bệnh viện cũng vậy.  Bệnh nhân nằm trên giường, khắc khoải lo âu vì không biết chuyện gì sẽ xảy ra.  Đau đớn trên thân xác, mệt mỏi và căng thẳng trong tinh thần.  Họ lo lắng và hồi hộp vì không biết phải chăng giờ Chúa gọi đã điểm.  Đây cũng là khoảng thời gian quý báu cho những người khô khan nguội lạnh có dịp nhìn lại mình sau bao năm xa lìa Chúa và Giáo hội.  Nằm trên giường bệnh họ lo sợ nếu có phải ra trước Tòa phán xét của Chúa thì sẽ phải trả lời, sẽ phải thưa chuyện với Chúa như thế nào? Thế nên họ yêu cầu xin gặp linh mục.  Lời khẩn cầu ấy thường luôn được đáp trả dù bất cứ lúc nào.  Nhiều lần tôi đã được gọi đến vì những lý do như thế.  Tôi đã đến để lắng nghe, để động viên, để nói về một Thiên Chúa nhân từ và thương xót không chấp nhất những lỗi lầm của họ trong quá khứ.  Tôi đã khuyên bảo họ từ những kinh nghiệm mà chính tôi có được về lòng nhân từ, về tình yêu của Thiên Chúa.  Tôi đã cầu nguyện cùng họ, với họ và cho họ; và đôi khi còn phải làm thêm một việc nữa là hướng dẫn hay dạy họ cách cầu nguyện vì họ đã bỏ Chúa lâu năm nên nay không còn biết thế nào là cầu nguyện.  Họ đã lắng nghe, họ đã mở lòng để đón nhận ơn giao hòa cùng Chúa qua tôi.  Căng thẳng nội tâm dần dần được giảm xuống, nỗi niềm bất an, dằn vặt dần dần được thay thế bằng sự tự tin, bình an.  Họ đã xưng tội, họ nhận bí tích xức dầu rồi lãnh nhận Mình Thánh Chúa, họ nhận phép lành ân sủng của Thiên Chúa qua tay tôi, phép lành của sự bình an, của sự yêu thương tha thứ...  Tôi đã thi hành năng quyền linh mục bằng việc cử hành các bí tích và làm tất cả những gì có thể được cho họ.  Với nhiều lần gặp gỡ như thế, thường thì trên đường lái xe trở về nhà tôi đã có cảm nhận thật mình là người hạnh phúc nhất trần gian.  Một thứ hạnh phúc sẽ không thể nào có được nếu không từ ân huệ thương ban nhưng không của Thiên Chúa dành cho tôi qua thiên chức linh mục.
Cũng vậy, tôi còn nhớ một lần, ngay trong những tháng đầu tiên của đời linh mục.  Lúc bấy giờ tôi còn là linh mục phụ tá của một giáo xứ lớn ở thành phố.  Bà thư ký nhận được một cuộc điện thoại xin một linh mục đem Mình Thánh Chúa đến viếng thăm cho một giáo dân ở xa.  Cha chính xứ không thể đi được vì ngài đang tiếp một cặp hôn phối cần hoàn tất thủ tục giấy tờ điều tra.  Tôi đã nhận lời đi thay ngài.  Lái xe gần một tiếng đồng hồ vì gia đình của người giáo dân này ở trong một nông trại khá xa thành phố.  Tôi đã lái xe qua những quãng đường vắng vẻ của mùa Hè oi nồng, hai bên đường chỉ là những cánh đồng lúa mì chín vàng ươm rộng mênh mông đang chờ thu hoạch.  Đường vắng không một bóng người, không một chiếc xe qua lại.  Tôi lái xe lần theo địa chỉ đã có mà trong lòng hồi hộp lo sợ vì nếu xe hư hay trục trặc vì bất kỳ lý do gì thì biết xoay sở làm sao? Chợt lấy tay sờ lên túi áo, nơi có hộp đựng Mình Thánh Chúa, tôi thấy lòng an tâm và vững dạ lạ thường.  Có Chúa, Chúa của cả vũ trụ bên tôi, Chúa quyền năng tác thành vạn vật.  Ngài đang bên tôi và với tôi.  Ngài đang là bạn đồng hành của tôi.  Tôi đang đưa Ngài đến thăm con cái của Ngài, thế thì tại sao tôi phải lo sợ? Một nỗi sợ không chính đáng và rất nhân loại.  Kể từ đó, tôi cảm thấy tự tin, bình an và lên tinh thần rất nhiều để tiếp tục hành trình mục vụ của mình.
Cuộc sống cô đơn và đầy thử thách của linh mục vẫn có đó.  Ngày ngày tôi vẫn phải đối diện với nhiều khó khăn, thách đố.  Nhưng không thể không nhìn nhận một sự thật là luôn có những hấp dẫn, những niềm vui và hạnh phúc bất ngờ do Chúa gửi đến để an ủi, để khích lệ, để tưởng thưởng cho tôi.  Tôi muốn viết ra đây một vài câu chuyện cụ thể.
1.  Một giáo dân của tôi, dân đam mê cờ bạc chính hiệu con nai vàng.  Ngày ngày tiêu tốn không biết bao nhiều thời gian bên những cỗ máy kéo trong Casinô.  Không chỉ lãng phí thời gian, ông còn lãng phí những đồng tiền có được do dành dụm, tiết kiệm trong nhiều năm trời, mà giờ đây, do về hưu, rảnh rỗi quá nên sinh tật mượn máy đánh bạc giải sầu.  Biết là mình sai, biết là mình đang nuôi, đang ôm ấp hy vọng hão huyền nhưng hấp lực quá lớn của những cơ may trúng bạc, nghe tiếng máy kêu leng keng quen tai nên ngày ngày ông vẫn tìm đến Casinô để thỏa mãn cơn nghiền.
Năm tháng trôi qua, ông trở thành con nghiện thật sự.  Nghiện cờ bạc cũng giống như nghiện xì-ke, không có mặt ở đó chân tay ông ngứa ngáy chịu không được.  Một lần kia gần như cháy túi, ông thất thểu trở về và trên đường về nhà ông ghé thăm tôi như một chuyện tình cờ mà không có chủ đích.  Câu chuyện qua lại rồi cũng vào chủ đề chính: chuyện cờ bạc và thú vui đỏ đen của ông.  Thật tôi cũng chẳng nhớ chính xác mình đã nói những gì, đã khuyên ông ra sao nếu không có một ngày sau đó 3 tuần ông quay lại tìm tôi.  Ông rươm rướm nước mắt, tay ông cầm tay tôi và ông nói với tôi: “Cha à, Cha có biết là Cha đã cứu đời tôi! Ông Cha có còn nhớ lần gặp trước đây Cha nói với tôi là phải nhớ luôn trong đầu mấy cái máy đánh bạc đặt ở Casinô nó thông minh hơn tôi nhiều.  Kể từ lần đó, mỗi lần đặt chân đến Casinô là tôi lại nhớ đến lời Cha và thế là tôi chùn bước không muốn tiến vào sâu hơn để rồi tôi quay xe trở về!”
Cám ơn Chúa.  Thật đúng là có Chúa Thánh Thần giúp tôi, soi sáng cho tôi để nói như thế với ông ấy, chứ tôi đâu có biết mấy cái máy đánh bạc ở Casinô hình dạng của chúng như thế nào? Tôi không phân biệt sự khác nhau giữa những lá bài và luật chơi ra sao, không biết chuyện kéo máy là thế nào...  Thật kiến thức, sự hiểu biết của tôi về chuyện bài bạc là con số zéro to đùng đùng.  Thế mà hôm đó tôi đã nói với ông ta như vậy.  Đúng là Chúa Thánh Thần làm việc qua tôi.  Thật quá lạ lùng phải không thưa bạn?
2.  Một lần kia, tôi đang dùng bữa chiều, điện thoại kêu xức dầu từ bệnh viện.  Tôi bỏ dở bữa ăn và nhanh chóng lên đường.  Đến nơi tôi gặp một người phụ nữ không phải là giáo dân của tôi đang trong cơn hấp hối.  Tôi đã giúp bà dọn mình chết lành, lắng nghe bà xưng tội dù tôi không nhận ra, không nghe rõ, không hiểu được bà đang nói những gì vì bà quá yếu, nhưng trên hết, tôi tin là Chúa hiểu tấm lòng chân thành của bà muốn thành khẩn ăn năn.  Tôi đã cử hành bí tích giao hòa, xức dầu, rồi cho bà chịu Mình Thánh Chúa và sau cùng ban ơn toàn xá cho bà.  Bà có vẻ mệt sau tất cả những nghi thức ấy nhưng cũng có thể nhìn thấy sự thanh thản mãn nguyện trên khuôn mặt bà.  Tôi đã lái xe về nhà sau khi hứa với bà là tôi sẽ tiếp tục cầu nguyện cho bà tuân theo ý Chúa nếu quả thật Ngài muốn gọi bà ra đi trở về với Ngài. 
Tối hôm đó chuông điện thoại reo lên lần nữa.  Người con trai của bà cho tôi biết là mẹ anh đã qua đời trong bình an, nhẹ nhàng, một sự ra đi trở về với Chúa trong thanh thản, an bình.  Bạn có biết sau khi buông điện thoại xuống, lòng tôi tràn ngập niềm vui vì cảm thấy mình thật là người hạnh phúc và là người có ích bởi chính Chúa đã dẫn tôi đến đúng vào thời điểm quan trọng nhất trong cuộc đời của một con người. 
Thật vậy, nếu đó không phải là do ơn Chúa đưa dẫn, làm sao tôi có thể gặp bà vào những giờ phút cuối đời để đem bà về với Chúa? Mà chuyện đem bà, hay mọi người về với Chúa vốn là công việc và bổn phận ơn gọi của tôi.
Trước khi chịu chức người ta gọi tôi là Thầy, là anh, là cháu, là em… nhưng sau khi chịu chức họ gọi tôi là Cha cho dù tuổi đời của họ đáng bậc cha chú.  Từ rất lâu tôi đã có một ý niệm về chuyện này.  Họ gọi mình là Cha, là Cha theo nghĩa tinh thần, theo nghĩa thiêng liêng, là Cha chăm sóc phần hồn.  Tôi không thể nào là Cha sinh ra họ theo nghĩa tự nhiên cũng như thiêng liêng vì tất cả đều là con Chúa.  Tuy nhiên, tôi là Cha theo nghĩa quản lý và ban phát các hồng ân của Chúa là các bí tích, các ơn lành của Chúa cho họ.  Vậy tôi phải xứng đáng với nghĩa vụ và đặc sủng này.  Tôi phải giữ mình để được luôn xứng đáng với tước hiệu ấy.
Thưa bạn,
Cuộc đời linh mục còn nhiều nhiều niềm vui âm thầm nhưng sâu sắc lắm.  Những gì tôi kể chỉ là một phần nhỏ thôi.  Quả thật giờ đây sau 3 năm nhìn lại, tôi thấy mỗi ngày Chúa luôn gửi đến cho tôi những niềm vui bất ngờ để cổ võ, khuyến khích hay động viên tôi tiếp tục dấn thân phục vụ Chúa và Dân của Ngài mỗi ngày.  Tôi có thể khẳng định với bạn rằng cuộc sống hiến thân phục vụ ý nghĩa và giá trị lắm. 
Thánh Phaolô trong thư thứ 2 gửi cho Timôthê đã tâm sự rằng: “Còn Cha, Cha sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ Cha phải ra đi.  Cha đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin.  Giờ đây Cha chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho Cha trong ngày ấy, và không phải chỉ cho Cha, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.  Có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho Cha, để nhờ Cha mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng”.  (2 Tim 4, 6-8)
Tôi đặc biệt yêu thích những dòng tâm sự này của Phaolô.  Ngài đã dành hết cuộc đời cho công việc rao giảng Tin Mừng, và ngài đã không giấu giếm sự hãnh diện vì tin rằng phần thưởng đời đời sẽ được trao ban cho ngài.  Ngài đã cống hiến tất cả cho một cuộc chiến vì lý tưởng phục vụ Tin Mừng nên ngài tin chắc Vị Thẩm Phán Chí Công sẽ trao cho ngài phần thưởng vinh quang nhất. 
Bạn thân mến, như Phaolô, tùy theo hoàn cảnh và đặc thù ơn gọi của mỗi người, tôi và bạn cũng đã và đang dấn thân, sống và chiến đấu cho lý tưởng phục vụ Tin Mừng.  Cuộc chiến mà chúng ta đang tham gia vẫn còn dài và còn nhiều trở ngại phía trước.  Nhưng tôi tin là Chúa sẽ giúp sức cho chúng ta để cùng chạy đến đích, để chúng ta cũng được nhận lãnh vòng hoa dành cho những người công chính nhờ vào lời cầu nguyện và sự cố gắng mỗi ngày.  Xin hãy cầu nguyện và tiếp tục cầu nguyện cho nhau để cùng nhau chiến đấu và chạy đến đích trong cuộc chiến ấy mà không quỵ ngã vì mỏi mệt hay thất vọng; cũng không buông xuôi hay đầu hàng vì thiếu niềm tin yêu. 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét